Cây dừa cạn (Catharranthus roseus (L.) G. Don ), hay còn gọi là bông dừa, hoa hải đằng, trường xuân hoa. Họ Trúc đào (Apocynaceae). Cây thảo, cao 50 – 80cm, phân nhiều cành. Lá mọc đối, hình trái xoan, dài 3 – 8cm, rộng 1 – 2,5cm. hoa mọc đơn độc ở kẽ các lá phía trên, màu hồng hay trắng. Đài 5 hợp thành ống ngắn. Tràng 5, hình đinh. Nhị 5 đính vào họng của ống tràng, chỉ nhị rất ngắn, bộ nhụy gồm 2 lá noãn dính với nhau ở vòi, rời ở bầu. Quả gồm 2 đại, dài 2,5 – 3cm, hạt nhỏ hình trứng, màu nâu nhạt hoặc nâu đen.
Dừa cạn dễ trồng và có hoa đẹp nên còn được trồng làm cây cảnh. - Ảnh minh họa
Mùa hoa và quả: tháng 4 – 5 và 9 – 10.
Dừa cạn mọc hoang ở Việt Nam có hàm lượng ancaloit toàn phần trung bình 0,7 – 1,2%. Dừa cạn ở vùng ven biển Phú Yên có hàm lượng cao nhất 1,21 – 1,62%. Hàm lượng vinblastin khoảng 1,6 – 2,0 phần vạn. Ngoài vinblastin và vincristin là 2 chất có tác dụng chữa ung thư, người ta còn chú ý khai thác cả catharantin và vindolin để từ 2 chất này tổng hợp thành vinblastin. Ở rễ, ngoài ajmalicin để làm thuốc tim mạch còn chiết xuất cả serpentin để làm nguyên liệu tổng hợp ajmalicin (ajimalicin là tetrahydroserpentin).
Ảnh minh họa.
Y học cổ truyền nhiều nước dùng lá Dừa cạn làm thuốc chữa bệnh đái đường, thông tiểu, chữa chứng đi tiểu đỏ, tiểu ít, bế kinh. Rễ và lá dùng làm thuốc hạ huyết áp. Có nơi dùng làm thuốc đắng kích thích tiêu hóa, chữa lị. Liều dùng trung bình 8 – 20g, dạng thuốc sắc. Xuất phát từ kinh nghiệm chữa bệnh khối u của nhân dân Ấn Độ, khoa học đã phát hiện ra chất kháng ung thư trong lá Dừa cạn và đã chiết xuất, chứng minh tác dụng của vinblastin là thuốc lựa chọn thứ nhất trong thành phần phối hợp 3 thuốc để điều trị ung thư biểu mô tinh hoàn, là thuốc lựa chọn thứ hai trong nhóm điều trị Hodgkin, ung thư nhau, ung thư biểu mô tế bào, có vẩy ở đầu và cổ, ung thư biểu mô tế bào thận, và còn là một trong những thuốc lựa chọn thứ ba để điều trị u nguyên bào thần kinh, ung thư vú, ung thư cổ và ung thư dạng nấm da. Ngoài ra còn được dùng chữa bệnh sacôm lympho, sacôm bạch huyết bào, bệnh sacôm chảy máu Kaposi, sacôm tế bào lưới. Không có sự kháng chéo giữa vinblastin với các loại thuốc chống ung thư khác.
Pink flowers and leaves of Madagascar Periwinkle, Vinca rosea, Catharanthus roseus ... Hoa và lá của cây Dừa Cạn ....
Vietnamese named : Dừa Cạn , Hải Đằng, Hải Đăng, Dương Giác, Bông Dừa, Trường Xuân hoa .
Common names : Madagascar Periwinkle, Cape Periwinkle, Rose Periwinkle, Rosy Periwinkle, and "Old-maid"
Scientist name : Catharanthus roseus (L.) G.Don
Synonyms : Vinca rosea
Family : Apocynaceae. Họ La Bố Ma
Kingdom:Plantae
(unranked):Angiosperms
(unranked):Eudicots
(unranked):Asterids
Order:Gentianales
Genus:Catharanthus
Species:C. roseus
Common names : Madagascar Periwinkle, Cape Periwinkle, Rose Periwinkle, Rosy Periwinkle, and "Old-maid"
Scientist name : Catharanthus roseus (L.) G.Don
Synonyms : Vinca rosea
Family : Apocynaceae. Họ La Bố Ma
Kingdom:Plantae
(unranked):Angiosperms
(unranked):Eudicots
(unranked):Asterids
Order:Gentianales
Genus:Catharanthus
Species:C. roseus
Dừa cạn có nhiều giống, mỗi giống có một mầu hoa từ tím, hồng lợt, trắng, trắng có đốm đỏ cho đến hường có chấm trắng, hường có sọc, đỏ sậm... Không dừng lại với những cây đơn mầu hoa, chú Ba Thật (một nghệ nhân hoa kiểng ở quận Thủ Đức, Tp. HCM) đã tìm cách ghép nhiều giống lên cùng một gốc ghép tạo ra cây dừa cạn có nhiều mầu hoa rất đẹp và lạ mắt.
Trước hết chú ý sưu tầm hạt của nhiều giống rồi gieo mỗi giống vào một khay có đánh dấu ghi rõ giống này có hoa mầu gì để sau này dễ lựa chọn mầu hoa để ghép. Sau trồng khoảng một năm, những cây này đạt được độ lớn làm gốc ghép để ghép những giống khác lên bằng phương pháp ghép chẻ ngọn.
Cách ghép như sau: Trên cây dùng làm gốc ghép chọn những tược có độ lớn cỡ ruột cây bút bi hoặc đầu nhỏ của cây đũa ăn, cắt bỏ một đọan dài 3-4cm (phần này gọi là “gốc ghép”). Trên cây cần lấy giống cũng chọn những tược có độ lớn tương đương với “gốc ghép” sau đó cắt lấy một đọan ngọn dài 3-4cm (phần này gọi là “cành ghép”), cắt bỏ những lá ở gốc “cành ghép” rồi dùng lưỡi dao lam cắt vạt hai bên của gốc “cành ghép” tạo cho gốc “cành ghép” có hình nêm (vết cắt vạt dài 1cm), tiếp theo dùng lưỡi dao chẻ đôi “gốc ghép” (chẻ sâu 1,5cm) rồi khéo léo luồn phần vạt nêm của gốc “cành ghép” vào chỗ vừa chẻ đôi này, lấy dây nilon mềm quấn vừa đủ chặt chỗ ghép, sau cùng dùng một bao nilon nhỏ (loại trong) trùm kín cả “cành ghép” và chỗ ghép để “cành ghép” không bị khô và chỗ ghép không bị nước xâm nhập.
Đưa cây ghép vào chỗ mát hoặc che nắng cho cây. Hai tuần sau nếu thấy “cành ghép” còn sống thì tháo bỏ bao nilon, một tháng sau có thể tháo bỏ dây nilon quấn quanh chỗ ghép. Sau ghép một thời gian “cành ghép” sẽ ra lá, phát triển, phân nhánh rồi ra hoa. Muốn cây hoa sau này cân đối và đẹp nên ghép các giống có mầu hoa tương phản xen kẽ với nhau. Có thể ghép cùng lúc nhiều giống, hoặc ghép dần từng giống, sau một thời gian chúng ta sẽ có một cây dừa cạn có nhiều mầu hoa rất đẹp, lạ mắt và dễ thương.
Dừa cạn hay hải đằng, dương giác, bông dừa, trường xuân hoa (danh pháp khoa học: Catharanthus roseus) là một loài thực vật là một loài thực vật trong chi Catharanthus thuộc họ La bố ma (Apocynaceae). Nó là cây bản địa và đặc hữu của Madagascar. Các danh pháp đồng nghĩa có Vinca rosea, Ammocallis rosea, Lochnera rosea.
Trong tự nhiên, nó là loài nguy cấp; nguyên nhân chính của sự suy giảm là sự phá hủy môi trường sống do kiểu canh tác nông nghiệp dựa trên chặt cây và đốt rừng để lấy đất.[1] Tuy nhiên, nó được gieo trồng khá rộng khắp và đã thích nghi với điều kiện môi trường trong nhiều khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới khắp thế giới
Miêu tả
Nó là cây thân thảo hoặc cây bụi nhỏ thường xanh, cao tới 1 m, phân cành nhiều. Các lá có dạng hình ôvan hay thuôn dài, kích thước 2,5–9 cm dài và 1–3,5 cm rộng, xanh bóng, không lông, với gân lá giữa nhạt màu hơn và cuống lá ngắn (dài 1–1,8 cm); mọc thành các cặp đối. Hoa có màu từ trắng tới hồng sẫm với phần tâm có màu đỏ hơn, ống tràng dài 2,5-3 cm và tràng hoa đường kính 2–5 cm có 5 thùy tương tự như cánh hoa. Quả là một cặp quả đại dài 2–4 cm, rộng 3 mm chứa 12-20 hạt nhỏ màu nâu nhạt, hình trứng.
Thành phần hóa học
Lá chứa các ancaloit như serpentin, ajmalin, ajmalicin, catharanthin, catharanthinol, vindolin, vindolicin, vincaleucoblastin, leurocin.
Công dụng
Loài cây này đã được gieo trồng từ lâu để làm cây thuốc và cây cảnh.
Trong y học cổ truyền Trung Hoa, các chất chiết ra từ loài dừa cạn này đã được sử dụng để điều trị một số bệnh, như bệnh đái đường, sốt rét và bệnh Hodgkin.[3] Các chất như vinblastin và vincristin chiết ra từ cây này được sử dỵng trong điều trị bệnh máu trắng.[1] Nó có thể gây nguy hiểm nếu uống.[1] Nó có thể gây ra ảo giác và được liệt kê (dưới tên gọi Vinca rosea) trong Sắc luật 159 của bang Louisiana.
Trong vai trò của một loại cây cảnh, nó là loài cây chịu được các điều kiện khô hạn và thiếu chất dinh dưỡng, khá phổ biến trong các khu vườn cận nhiệt đới do nhiệt độ luôn cao hơn 5 °C đến 7 °C, cũng như trong vai trò của loại cây trồng theo luống trong mùa nóng tại khu vực ôn đới. Nó đáng chú ý vì thời gian ra hoa kéo dài, quanh năm ở khu vực nhiệt đới và từ mùa xuân tới cuối mùa thu ở khu vực ôn đới ấm. Nó là loài cây ưa nắng và đất có điều kiện tưới tiêu nước tốt. Nhiều giống cây trồng đã được chọn lọc cho các loại màu hoa khác nhau (trắng, hoa cà, hồng đào, đỏ và cam đỏ), cũng như chịu được điều kiện lạnh hơn ở khu vực ôn đới. Một vài giống đáng chú ý có 'Albus' (hoa trắng), 'Grape Cooler' (hồng; chịu lạnh), nhóm Ocellatus (nhiều loại màu), và 'Peppermint Cooler' (trắng, điểm đỏ ở tâm; chịu lạnh).[2]
C. roseus được sử dụng trong bệnh học thực vật như là cây chủ thực nghiệm đối với các dạng phytoplasma.[6] Điều này là do nó dễ dàng nhiễm một lượng lớn các phytoplasma, và do thông thường nó có các triệu chứng rất khác biệt như sự phát triển của các bộ phận hoa thành lá và suy giảm kích thước lá một cách đáng kể.[7]
Tại Việt Nam, cây được trồng làm cảnh, hoặc làm thuốc trị cao huyết áp, tiểu đường, sốt rét, bệnh máu trắng, thông tiểu
Loài cây này đã được gieo trồng từ lâu để làm cây thuốc và cây cảnh.
Trong y học cổ truyền Trung Hoa, các chất chiết ra từ loài dừa cạn này đã được sử dụng để điều trị một số bệnh, như bệnh đái đường, sốt rét và bệnh Hodgkin.[3] Các chất như vinblastin và vincristin chiết ra từ cây này được sử dỵng trong điều trị bệnh máu trắng.[1] Nó có thể gây nguy hiểm nếu uống.[1] Nó có thể gây ra ảo giác và được liệt kê (dưới tên gọi Vinca rosea) trong Sắc luật 159 của bang Louisiana.
Trong vai trò của một loại cây cảnh, nó là loài cây chịu được các điều kiện khô hạn và thiếu chất dinh dưỡng, khá phổ biến trong các khu vườn cận nhiệt đới do nhiệt độ luôn cao hơn 5 °C đến 7 °C, cũng như trong vai trò của loại cây trồng theo luống trong mùa nóng tại khu vực ôn đới. Nó đáng chú ý vì thời gian ra hoa kéo dài, quanh năm ở khu vực nhiệt đới và từ mùa xuân tới cuối mùa thu ở khu vực ôn đới ấm. Nó là loài cây ưa nắng và đất có điều kiện tưới tiêu nước tốt. Nhiều giống cây trồng đã được chọn lọc cho các loại màu hoa khác nhau (trắng, hoa cà, hồng đào, đỏ và cam đỏ), cũng như chịu được điều kiện lạnh hơn ở khu vực ôn đới. Một vài giống đáng chú ý có 'Albus' (hoa trắng), 'Grape Cooler' (hồng; chịu lạnh), nhóm Ocellatus (nhiều loại màu), và 'Peppermint Cooler' (trắng, điểm đỏ ở tâm; chịu lạnh).[2]
C. roseus được sử dụng trong bệnh học thực vật như là cây chủ thực nghiệm đối với các dạng phytoplasma.[6] Điều này là do nó dễ dàng nhiễm một lượng lớn các phytoplasma, và do thông thường nó có các triệu chứng rất khác biệt như sự phát triển của các bộ phận hoa thành lá và suy giảm kích thước lá một cách đáng kể.[7]
Tại Việt Nam, cây được trồng làm cảnh, hoặc làm thuốc trị cao huyết áp, tiểu đường, sốt rét, bệnh máu trắng, thông tiểu
Ancaloit